Trang

Thứ Năm, 10 tháng 6, 2010

Bộ nguồn ATX: Nguồn cấp trước


Nhiệm vụ:
  • Cung cấp 5V dây tím (standby).
  • Tạo áp 5V dây công tắc xanh lá (PS_ON).
  • Họat động ngay khi cắm điện.
Linh kiện chính:
  • Transistor hoặc mosfet công suất (Chịu áp U=600V và dòng I=2A)
  • Biền thế xung cấp trước: Biến thế nhỏ nằm ngòai bìa.
  • Transistor nhí (1 hoặc 2 con C945/C1815 và A733/A1015) <– có một số mạch dùng thằng hồi tiếp từ cuộn dây sẽ không có.
  • IC 431 và OPTO: một ố mạch không có
  • IC ổn áp 7805: cho mạch không dùng 431 và OPTO
  • R, C tạo dao động

 Các sơ đồ mạch thông dụng:



Nhiệm vụ các linh kiện chính:
  • Q3 làm nhiện vụ: Công suất ngắt mở
  • R16, C8: Hồi tiếp tín hiệu để tạo dao động.
  • Q4: Sửa sai do OPTO và IC 431 gởi về.
  • T3: biến thế xung cấp trước.
Các lỗi thường gặp:
  • Mất điện áp 300V đầu vào
  • Đứt điện trở mồi
  • Lỗi R hoặc C hồi tiếp.
  • Lỗi transistor/mosfet công suất.
  • Đứt điện trở bảo vệ từ chân S xuống mass.
  • Lỗi Transistor sửa sai.
 Cấp trước đã chạy nhưng chưa hoàn hảo: quá cao hoặc quá thấp:
  • Các điện trở cầu phân áp sai trị số
  • Lỗi IC 431
  • Lỗi OPTO
  • Tụ lọc ngõ ra khô hoặc phù


 Trần Thanh Long

Mất nguồn cấp trước 5V Stanby

Phân tích nguyên nhân.
Mất điện áp 5V STB là do nguồn cấp trước không hoạt động, có thể do các nguyên nhân sau đây.
* Mất điện áp 300V DC bên sơ cấp
- Khi nguồn bị các sự cố như chập đèn công suất, chập các đi ốt chỉnh lưu sẽ gây nổ cầu chì và mất điện áp 300V DC

 Nếu chập các đi ốt trong cầu đi ốt chỉnh lưu sẽ dẫn đến nổ cầu chì hoặc đứt điện trở nhiệt, làm mất điện áp 300V DC

Nếu chập các đèn công suất của nguồn chính sẽ gây nổ cầu chì, đứt điện trở nhiệt và kéo theo gây chập các đi ốt chỉnh lưu, mất điện áp 300V DC
* Nguồn cấp trước không dao động.
- Nguồn cấp trước sẽ bị mất dao động khi bị các sự cố như đứt điện trở mồi, bong mối hàn đèn công suất và các điện trở, tụ điện hồi tiếp để tạo dao động.

 - Nếu đứt điện trở mồi hoặc bong chân R, C hồi tiếp thì nguồn cấp trước sẽ mất dao động, mất điện áp ra
- Nếu bong chân đèn công suất thì mạch cũng mất dao động và mất điện áp ra
- Nếu chập đèn công suất thì sẽ nổ cầu chì, đứt điện trở nhiệt và có thể làm chập các đi ốt chỉnh lưu điện áp AC 220V
- Nếu chập hoặc đứt các đi ốt chỉnh lưu điện áp ra cũng làm mất điện áp 5V STB
Tháo vỉ máy ra và kiểm tra
Bạn cần kiểm tra tất cả các linh kiện được chú thích như hình dưới đây.
- Kiểm tra cầu chì xem có bị đứt không ?
- Kiểm tra điện trở nhiệt (có điện trở khoảng 4,7Ω ) xem có bị đứt không ?
- Kiểm tra các đi ốt chỉnh lưu xem có bị đứt hay bị chập không ?
- Kiểm tra các đèn công suất xem có bị chập không ?
- Kiểm tra hai con đi ốt chỉnh lưu đầu ra xem có bị chập hay đứt không ? 



 Cần kiểm tra các linh kiện được chú thích như hình trên.
 

  • Các trường hợp hư hỏng và phương pháp sửa chữa


  • Trường hợp 1
    - Không phát hiện thấy các linh kiện trên bị chập hay đứt

  • - Cấp điện vào đo vẫn thấy có điện áp 300V (hoặc đo trên các tụ lọc vẫn thấy có 150V trên mỗi tụ)Sửa chữa
    * Nếu vẫn có điện áp 300V DC đầu vào nghĩa là các đèn công suất không bị chập, cầu chì và các đi ốt vẫn tốt.
    * Mất điện áp ra là do nguồn bị mất dao động, vì vậy bạn cần kiểm tra kỹ các linh kiện sau:
    - Kiểm tra kỹ điện trở mồi, trường hợp này đa số là do hỏng điện trở mồi. (chú ý - điện trở mồi phải thay đúng trị số hoặc cao hơn một chút)



  • Điện trở mồi được đấu từ điện áp 300V đến chân B hoặc chân G đèn công suất
    - Hàn lại đèn công suất, điện trở và tụ hồi tiếp
    - Đo kiểm tra hai đi ốt chỉnh lưu đầu ra, nếu thấy chập thì bạn thay đi
    ốt mới (chú ý - đây là đi ốt cao tần)



    Sau khi sửa xong, bạn cấp điện cho bộ nguồn và đo điện áp trên sợi dây mầu tím nếu có điện áp 5V thì nguồn Stanby mà bạn sửa đã hoạt động tốt.

    Trường hợp 2
    - Phát hiện thấy đứt cầu chì, chập một hoặc nhiều đi ốt, thậm chí đứt cả điện trở nhiệt.
    - Đo đèn công suất của nguồn cấp trước thấy bị chập CE hoặc chập DS, hai đèn công suất của nguồn chính vẫn tốt.


    Các bước sửa chữa
    * Tháo đèn công suất đang bị chập ra ngoài và chỉ thay đèn mới vào sau khi đã sửa xong mạch đầu vào và đã có điện áp 300V DC.
     

     Tháo đèn công suất đang bị chập ra ngoài
    * Thay các đi ốt bị chập hoặ bị đứt
    * Thay điện trở nhiệt (nếu đứt), nếu không có ta có thể thay bằng điện trở sứ 4,7Ω /10W
    * Thay cầu chì (lưu ý cần thay cầu chì chịu được 4 Ampe trở lên)


     Thay thế cầu chì, điện trở nhiệt và các đi ốt chỉnh lưu bị hỏng
    => Sau đó cấp điện cho bộ nguồn, đo điện áp trên hai tụ lọc nguồn chính xem có điện áp chưa và có cân bằng không ?


     
    - Đo điện áp trên hai tụ lọc phải có điện áp 150V và điện áp trên hai tụ phải bằng nhau.
    - Trường hợp đo thấy điện áp trên hai tụ bị lệch, bạn cần phải thay hai con điện trở đấu song song với hai tụ này.
    - Nếu điện áp trên hai tụ điện vẫn bị lệch thì bạn cần phải thay hai tụ điện mới.
    - Nếu điện áp trên hai tụ này bị lệch thì nguồn cho dòng yếu và hay bị chết các đèn công suất của nguồn chính.
    * Kiểm tra kỹ các linh kiện xung quanh đèn công suất xem có bị hỏng không ?

     
    - Khi đèn công suất bị chập thường kéo theo các linh kiện khác bám vào chân B và chân E của đèn công suất bị hỏng theo.
    - Cần kiểm tra kỹ các điện trở bám vào chân E và các đi ốt, Transistor bám vào chân B
    => Các linh kiện xung quanh nếu thấy hỏng ta cần thay thế ngay.
    * Bước sau cùng là lắp đèn công suất vào vị trí
    Lưu ý :
    - Khi thay đèn công suất bạn cần chú ý, có hai loại đèn được sử dụng trong nguồn cấp trước là đèn BCE (đèn thường) và đèn DSG (Mosfet)
    - Nếu bạn thay nhầm hai loại đèn trên thì nó sẽ bị hỏng hoặc không hoạt động
    - Bạn có thể thay một đèn công suất tương đương (nếu không có đèn đúng số)
    - Đèn tương đương là đèn có cùng chủng loại BCE hay DSG và được lấy từ vị trí tương đương trên một bộ nguồn khác, hoặc bạn có thể tra cứu các
    thông số: U max - điện áp cực đại, I max - dòng cực đại, và P max
    - công suất cực đại, các thông số trên nếu chúng tương đương là thay
    được.
    * Cấp điện cho bộ nguồn và đo điện áp 5V STB trên dây mầu tím



     Sau khi sửa xong, bạn cấp điện cho bộ nguồn và đo điện áp trên sợi dây mầu tím nếu có điện áp 5V thì nguồn Stanby mà bạn sửa đã hoạt động tốt.
    Trường hợp 3
    - Phát hiện thấy đứt cầu chì, chập một hoặc nhiều đi ốt, đứt điện trở nhiệt.
    - Đo đèn công suất của nguồn cấp trước thấy bình thường nhưng hai đèn công suất của nguồn chính bị chập CE
    Các bước sửa chữa
    * Tháo hai đèn công suất của nguồn chính đang bị chập ra ngoài


    Tháo hai đèn công suất ra ngoài
    * Sau đó bạn thay thế cầu chì, điện trở nhiệt và các đi ốt bị hỏng.


     Thay thế cầu chì, điện trở nhiệt và các đi ốt bị hỏng
    => Sau đó cấp điện cho bộ nguồn, đo điện áp trên hai tụ lọc nguồn chính xem có điện áp chưa và có cân bằng không ?



    - Đo điện áp trên hai tụ lọc phải có điện áp 150V và điện áp trên hai tụ phải bằng nhau.
    - Trường hợp đo thấy điện áp trên hai tụ bị lệch, bạn cần phải thay hai con điện trở đấu song song với hai tụ này.
    - Nếu điện áp trên hai tụ điện vẫn bị lệch thì bạn cần phải thay hai tụ điện mới.
    - Nếu điện áp trên hai tụ này bị lệch thì nguồn cho dòng yếu và hay bị chết các đèn công suất của nguồn chính.
    * Đo kiểm tra điện áp 5V STB trên dây mầu tím


     Sau khi sửa xong, bạn cấp điện cho bộ nguồn và đo điện áp trên sợi dây mầu tím
    nếu có điện áp 5V thì nguồn Stanby mà bạn sửa đã hoạt động tốt.
    * Bước sau cùng là bạn thay hai đèn công suất mới cho nguồn chính.
    - Bạn có thể thay các đèn công suất tương đương (nếu không có đèn đúng số)
    - Đèn tương đương là đèn có cùng chủng loại BCE được lấy từ vị trí tương đương trên một bộ nguồn khác, hoặc bạn có thể tra cứu các thông số: U
    max - điện áp cực đại, I max - dòng cực đại, và P max - công suất cực đại, các thông số trên nếu chúng tương đương là thay được.
    Ở trường hợp 3 này - nguyên nhân chập hai đèn công suất thường do điện áp trên hai tụ lọc nguồn chính bị lệch, vì vậy khi kiểm tra thấy các
    đèn công suất của nguồn chính bị chập, bạn cần kiểm tra kỹ hai tụ lọc nguồn và hai điện trở đấu song song với chúng, sau khi thay thế các tụ
    và điện trở này, điện áp đo được trên hai tụ phải bằng nhau và bằng 150V


     Ví dụ - Nếu đứt R3 ở trên thì điện áp trên hai tụ sẽ lệch nhau, trên tụ C1 chỉ có 100V trong khi tụ C2 có 200V, trường hợp này khi chạy sẽ gây hỏng các đèn công suất của nguồn chính sau ít phút hoạt động

    Khi các tụ lọc này bị khô cũng gây ra cho điện áp ở điểm giữa bị lệch, vì vậy bạn cần kiểm tra kỹ các tụ lọc nếu điện áp trên hai tụ này lệch nhau

    "Mẹo" chống xung đột giữa Office 2007 và 2003

    Nếu ai đã từng cài chung Ms Office 2003 và 2007 trên cùng một hệ điều hành thì hẳn luôn đau đầu vì chiến tranh xảy ra liên tục giữa chúng. Ms Word là một ví dụ.

    Nếu sau khi chạy Word 2007, bạn mở Word 2003 thì nó phải cấu hình lại chương trình (mất gần một phút ), và ngược lại. Dưới đây là cách giúp 2 phiên bản này hòa thuận hơn:

    Vào Start => Run , gõ Regedit. Tìm đến khóa

    HKEY_CURRENT_USER\Software\Microsoft\Office\12.0\W ord\Options





    HKEY_CURRENT_USER\Software\Microsoft\Office\11.0\W ord\Options

    Sau đó vào New => DWORD Value với tên ‘NoRereg’ , thiết lập giá trị là 1






    Lưu ý : Nếu bạn tạo giá trị này ở cá hai phiên bản, thì file *.docx được mở bởi Word 2007 , *.doc được mở bởi Word 2003.
     
    Nếu bạn tạo giá trị ở HKEY_CURRENT_USER\Software\Microsoft\Office\11.0\W ord\Options , cả 2 dạng file sẽ được mở bởi Word 2007.


    Tương tự với Excel và PowerPoint.

    ===================================

    Nếu ai đã từng cài chung Ms Office 2003 và 2007 trên cùng một hệ điều hành thì hẳn luôn đau đầu vì chiến tranh xảy ra liên tục giữa chúng. Ms Word là một ví dụ.


    Nếu sau khi chạy Word 2007, bạn mở Word 2003 thì nó phải cấu hình lại chương trình (mất gần một phút ), và ngược lại. Dưới đây là cách giúp 2 phiên bản này hòa thuận hơn:

    Vào Start => Run , gõ Regedit. Tìm đến khóa

    HKEY_CURRENT_USER\Software\Microsoft\Office\12.0\Word\Options


    HKEY_CURRENT_USER\Software\Microsoft\Office\11.0\Word\Options

    Sau đó vào New => DWORD Value với tên ‘NoRereg’ , thiết lập giá trị là 1

    Lưu ý : Nếu bạn tạo giá trị này ở cá hai phiên bản, thì file *.docx được mở bởi Word 2007 , *.doc được mở bởi Word 2003. Nếu bạn tạo giá trị ở HKEY_CURRENT_USER\Software\Microsoft\Office\11.0\Word\Options , cả 2 dạng file sẽ được mở bởi Word 2007.

    Tương tự với Excel và PowerPoint.
    ===================================

    Cài đặt cùng lúc hai bộ Office 2003 và 2007 trên cùng 1 máy

    Cài đặt cùng lúc hai bộ Office 2003 và 2007 trên cùng 1 máy
    Sự đổi mới của bộ Office 2007 làm người dùng lúng túng trong việc sử dụng. Vì vậy, việc nâng cấp từ bộ Office 2003 lên sử dụng bộ Office 2007 không phải là chuyện quá khó khăn, nhưng dường như người dùng vẫn e ngại những sự thay đổi về giao diện, vị trí trình đơn của phần mềm mới sẽ gây nhiều bỡ ngỡ, thậm chí là... rối cho công việc của mình.




    Tùy chọn cho phép bạn cài đặt bộ Office 2007 lên máy đã có bộ Office 2003


    Bài viết này hướng dẫn cách dùng chung bộ Office 2007 trên máy tính đã cài sẵn bộ Office 2003, để người dùng có thể vừa sử dụng bộ phần mềm cũ cho công việc, vừa thuận tiện cho việc mày mò làm quen bộ phần mềm mới. Cách thực hiện như sau:


    Bước 1: Tạo mới một thư mục bất kỳ trong thư mục Program Files của ổ đĩa C, ví dụ: Office 2007. Đưa đĩa cài đặt Office vào ổ đĩa của máy, trình Autorun sẽ tự chạy. Sau khi phân tích thấy trên máy đã có sẵn bộ Office 2003, tự động sẽ có một bảng thông báo mời bạn chọn Upgrade (nâng cấp) hay Customize (Tùy chọn). Hãy chọn Customize.




    Phải giữ lại bộ Office 2003 đang có trên máy


    Bước 2: Ở bảng hiện ra tiếp theo, trong thẻ Upgrade, đánh dấu chọn Keep all previous versions. Sau đó chuyển sang thẻ File Location, bấm nút Browse để chọn thư mục đã tạo trong bước 1 (Office 2007). Chuyển sang thẻ User Infomations, điền các thông tin cần thiết. Bấm Install Now ở góc phải bên dưới để bắt đầu cài đặt.




    Thay đổi đường dẫn lưu trữ bộ Office 2007
    Khi quá trình cài đặt hoàn tất, bấm nút Close để kết thúc.
    =============================

    1-- Chạy file setup

    2-- Nhập CD key của Office 2007

    3-- Bấm continue

    4-- Chọn CUSTOMIZE(đừng chọn upgrade nhé vì nếu chọn thì bản Office 2003 sẽ bị cài đè bời 2007 đấy)

    5-- Trong phần Customize có 3 sự lựa chọn :

    5.1-- Remove phiên bản trước(giống y hệt việc bản upgrade)

    5.2-- Giữ nguyên phiên bản trước đó có trong máy(keep all previousversions) -Bạn hãy chọn cái này để có thể dùng song song 2 phiên bản Office

    5.3-- Tuỳ chọn thứ 3 là bạn có thể lựa chọn remove những ứng dụng mà bạn không muốn có.(Không nên chọn).

    6-- Sau đó bạn bấm INSTALL NOW

    P/S: 6 bước trên thực hiện được khi mà máy tính của bạn đã có office 2003

    Có 5V tím cấp trước, kích không chạy

    Phân tích nguyên nhân.
    Vì điện áp cấp trước vẫn có 5V nên ta suy ra.
    • Điện áp đầu vào 300V DC vẫn có, các linh kiện đầu vào tốt
    • Nguồn cấp trước đã hoạt động tốt
    • Các đèn công suất của nguồn chính không bị chập
    Vì vậy hiện tượng hư hỏng ở trên là do những nguyên nhân sau đây.
    • Mạch bảo vệ của nguồn chính bị hỏng hoặc hỏng IC bảo vệ (không
      đưa được lệnh P.ON đến chân IC dao động)
    • Một trong các đèn khuếch đại đảo pha bị chập CE
    • IC dao động của nguồn chính bị hỏng
    • Một hoặc cả hai đèn công suất bị bong mối hàn

     Phương pháp kiểm tra & sửa chữa
    * Kiểm tra xem các đèn công suất có bị bong mối hàn không ?
     * Dò ngược từ chân biến áp đảo pha về phía IC dao động để tìm hai đèn khuếch đại đảo pha, kiểm tra các đèn đảo pha nếu bị chập CE thì bạn thay đèn mới, nếu đèn tốt thì kiểm tra tiếp IC dao động như sau:
    Nếu IC dao động hoạt động tốt thì sẽ cho ra các chế độ điện áp như sau:


     Điện áp của các đèn đảo pha khi nguồn ở chế độ chờ (khi lệnh P.ON có mức cao)

     Điện áp của các đèn đảo pha khi nguồn ở chế độ hoạt động (khi lệnh P.ON có mức thấp = 0V)

      Các bước sửa chữa cụ thể
    1) Tạm thời đấu chập chân B và E của hai đèn công suất lại (để khoá không cho hai đèn hoạt động)
    (Lưu ý - khi ép cho IC dao động hoạt động, khi đó mạch bảo vệ mất tác dụng, vì vậy khoá hai đèn công suất là để tránh trường hợp nguồn bị chập tải sẽ chết đèn công suất)


    Hàn chập chân B vào chân E của hai đèn công suất để khoá lại khi ép cho IC dao động chạy
    Đấu chập chân (4) của IC dao động xuống mass để ép cho IC dao động, sau đo kiểm tra các chế độ điện áp rồi đối chiếu với sơ đồ dưới đây.
    • Chân 8 và chân 11 của IC - TL494 phải có 2,2V
    • Chân C hai đèn đảo pha có khoảng 2,2V
    • Chân E hai đèn đảo pha có khoảng 1,6V
    => Nếu các giá trị điện áp đúng như trên thì IC vẫn hoạt động, nếu các
    chế độ điện áp bị sai đi là IC dao động bị hỏng

    • Tạm thời đấu chập chân B và E của hai đèn công suất lại (để khoá không cho hai đèn hoạt động)
    • Đấu chập chân số (4) của IC dao động TL494 xuống mass (để ép cho IC hoạt động)
    • Đo điện áp ở xung quanh các đèn đảo pha phải có giá trị như trên là IC tốt, ngược lại là IC dao động hỏng


    • Thay IC dao động (nếu các chế độ điện áp bị sai với sơ đồ trên)
    • Thay IC bảo vệ (nếu điện áp đầu ra của IC dao động vẫn bình thường)
     =======================================
    Một số câu hỏi thường gặp
    Câu hỏi 1 - Khi nguồn ở chế độ chờ Stanby vì sao hai đèn đảo pha vẫn có điện áp đưa vào chân B
    Trả lời: Các nguồn ATX hiện nay đều được thiết kế theo nguyên tắc - khi ở chế độ Stanby, IC dao động đưa ra điện áp một chiều khiến cho các đèn đảo pha dẫn bão hoà (có dòng khoảng 6mA đi qua đèn) lúc này dòng điện đi qua hai cuộn dây sơ cấp của biến áp có pha ngược nhau nên từ trường bị triệt tiêu, vì vậy điện áp đưa tới chân B các đèn công suất bằng 0V.
    Câu hỏi 2: Vì sao phải chập chân B vào chân E để khoá các đèn công suất khi chập chân số (4) của IC dao động xuống mass
    Trả lời:
    - Khi chập chân (4) của IC dao động xuống mass, IC sẽ cho ra dao động kể cả khi nguồn có sự cố như quá dòng hay quá áp, vì vậy nếu ta không khoá hai đèn công suất thì có thể làm cho các đèn công suất bị hỏng nếu bên thứ cấp bị chập.
    - Trường hợp bạn đã kiểm tra kỹ các đi ốt chỉnh lưu đầu ra mà không bị chập, bạn có thể để nguyên cho đèn công suất hoạt động, nếu khi chập chân (4) của IC dao động xuống mass mà nguồn chính hoạt động và cho điện áp ra bình thường thì bạn suy ra => mạch bảo vệ có sự cố, vì vậy không đưa được lệnh P.ON tới chân IC dao động.

    Câu hỏi 3: Nếu một trong hai đèn khuếch đại đảo pha bị chập CE thì nguồn chính có hoạt động không ?
    Trả lời: Nếu một trong hai đèn khuếch đại đảo pha bị chập CE thì nguồn chính không hoạt động được, khi đó quạt nguồn không quay, điện áp ra bằng 0

    Câu hỏi 4: Nếu một đèn khuếch đại đảo pha bị bong mối hàn hoặc không hoạt động thì nguồn chính có hoạt động không ?
    Trả lời: Ở trường hợp này vẫn có một đèn khuếch đại đảo pha hoạt động, vì vậy vẫn có một đèn công suất hoạt động nên điện áp ra vẫn có, tuy nhiên nguồn sẽ bị sụt áp khi có tải tiêu thụ.

    Câu hỏi 5: Hướng dẫn cách kiểm tra IC dao động TL494
    Trả lời: Để kiểm tra IC dao động TL494 bạn cần kiểm tra các thông tin sau đây:
    - Điện áp cung cấp vào chân (12) phải có từ 10 đến 12V, nếu điện áp này thấp hơn thì có thể IC bị chập hoặc nguồn Stanby ra thiếu điện áp.
    - Khi có điện áp vào chân (12) thì IC phải cho ra điện áp Vref = 5V ở chân (14), nếu không có điện áp này thì IC bị hỏng.
    - Khi ta đấu lệnh P.ON (dây mầu xanh lá cây) xuống mass thì chân (4) của IC - TL494 phải có điện áp bằng 0 để kích hoạt cho dao động ra, nếu chân (4) có điện áp > 0 thì do hỏng mạch bảo vệ phí trước hoặc hỏng IC - LM339
    - Ta có thể đấu chập chân (4) xuống mass để ép cho IC dao động hoạt động, khi đấu chập chân (4) xuống mass nếu không khoá các đèn công suất thì bạn cần kiểm tra kỹ các đi ốt chỉnh lưu điện áp ra.
    * Sau khi có đủ các điều kiện như:
    • Có 12V ở chân (12)
    • Có 5V ở chân (14)
    • Có 0V ở chân (4)
    - Thì IC sẽ có dao động ra, để kiểm tra dao động này bạn hãy kiểm tra chế độ điện áp của các đèn đảo pha
    - Nếu cả hai đèn đảo pha có điện áp như sau:
    • Đo tại chân B đèn (tức chân 8 hoặc chân 11 của IC có khoảng 2,2V DC
    • Đo tại chân E đèn có khoảng 1,6V DC
    • Đo tại chân C của đèn có khoảng 2,2V DC
    => Thì suy ra là IC dao động đã cho tín hiệu dao động ra bình thường
    Nếu chế độ điện áp của một hoặc cả hai đèn đảo pha ra bị sai so với điện áp trên là IC dao động bị hỏng.

    Câu hỏi 6: Ta có thể đo được điện áp dao động tại chân đèn công suất không, nếu các đèn công suất không hoạt động thì dao động này có duy trì không?
    Trả lời:
    - Nếu có dao động ra điều khiển chân B đèn công suất mà các đèn này không hoạt động (ví dụ đèn hỏng hoặc ta tháo hai đèn công suất ra ngoài) thì dao động này chỉ tồn tại 1- 2 giây rồi tắt, nguyên nhân là do khi không thấy có điện áp ra => mạch bảo vệ sẽ hoạt động và ngắt dao động.
    - Để dao động này duy trì khi đèn công suất không hoạt động (hoặc khi bạn tháo hai đèn công suất của nguồn chính ra ngoài) thì ta phải đấu chân (4) của IC dao động TL494 xuống mass
    - Dao động đo được giữa B và E của các đèn công suất (khi đã tháo các đèn công suất ra ngoài và đã chập chân 4 của IC dao động TL494 xuống mass) là
    khoảng 0,2V, thực tế thì biên độ dao động này cao hơn nhưng khi ta đo bằng đồng hồ thông thường thì chúng báo không chính xác do dao động này có tần
    số rất cao khoảng vài chục KHz



     Trần Thanh Long

    Nguồn sụt áp

    Nếu: Nguồn kiểm tra rời đã chạy OK, đo áp đầy đủ 5V, 12V, 3.3V… đều OK nhưng khi cắm vào main thì không boot hoặc lên rồi tắt. Đo áp khi cắm vô main thì thấy thiếu —> Nguồn bị sụt áp.
    Phân tích nguyên nhân của hiện tượng trên.

    Với hiện tượng trên quạt nguồn đã quay bình thường, chứng tỏ các mạch của nguồn đã hoạt động tốt, IC dao động tốt, mạch bảo không hoạt động nên không sảy ra quá dòng hay quá áp.
    - Điện áp 300V DC đầu vào đã có, các linh kiện đầu vào như cầu chì, cầu đi ốt, trở nhiệt vẫn tốt

    - Các đèn công suất không bị chập (kể cả nguồn cấp trước và nguồn chính)
    - Nguồn cấp trước đã hoạt động tốt (vì đã có 5V STB)
    - IC dao động của nguồn chính đã hoạt động và cho dao động ra điều khiển mạch công suất
    - Khi chập chân P.ON xuống mass thấy nguồn có hoạt động, lệnh P.ON có tác dụng.
    Nguyên nhân của hiện tượng trên là do những hư hỏng sau:
    - Các tụ lọc nguồn chính bị hỏng làm cho điện áp đầu vào giảm xuống.
    - Các điện trở đấu song song với các tụ lọc nguồn chính bị đứt làm cho điện áp điểm giữa các tụ bị lệch
    - Có một đèn công suất không hoạt động do bị bong mối hàn hoặc đèn đứt CE
    - Có một đèn đảo pha bị hỏng hoặc bị bong mối hàn
    - IC dao động ra bị mất một vế, chỉ còn dao động ra ở một vế.
    - Các tụ lọc đầu ra bị khô, bị phồng.
    Các bước kiểm tra và sửa chữa.
    * Bạn đo điện áp trên hai tụ lọc nguồn chính, mỗi tụ cần phải có đủ 150V
     Đo điện áp trên hai tụ lọc nguồn chính mỗi tụ phải có 150V

     Nếu điện áp trên hai tụ bị lệch nhưng tổng điện áp trên hai tụ vẫn đủ 300V là do bị đứt điện trở đấu song song với các tụ
     Nếu tổng điện áp trên hai tụ nhỏ hơn 300V là các tụ bị hỏng
    Chú ý - Các trường hợp hỏng tụ hoặc điện trở đấu song song với các tụ lọc nguồn làm cho điện áp điểm giữa các tụ bị lệch còn là nguyên nhân làm cho các đèn công suất của nguồn chính bị chập
    * Kiểm tra và hàn lại các đèn công suất của nguồn chính
    Nếu một đèn công suất không hoạt động, nguồn vẫn ra điện áp nhưng sẽ không hoạt động được khi có tải
    * Kiểm tra chế độ điện áp của các đèn đảo pha, hai đèn đảo pha phải có các điện áp như nhau

     Kiểm tra chế độ điện áp của các đèn đảo pha, hai đèn đảo pha phải có các điện áp như nhau, khi ở chế độ chờ thì các đèn có điện áp như sơ đồ trên

    Kiểm tra chế độ điện áp của các đèn đảo pha, hai đèn đảo pha phải có các điện áp như nhau, khi ở chế độ đang hoạt động thì các đèn có điện áp như sơ đồ trên
    * Chú ý - Nếu chế độ điện áp của hai đèn đảo pha khác nhau trong khi kiểm tra các đèn vẫn tốt là bị hỏng một vế của IC dao động, trường hợp này nguồn vẫn chạy nhưng không hoạt động được khi có tải.


    Kiểm tra và thay thế các tụ lọc đầu ra có hiện tượng bị phồng, bị khô.

    Cách kiểm tra nguồn có hoạt động không

    Kiểm tra xem bộ nguồn có hoạt động hay không ?
    • Chập chân lệnh P.ON xuống Mass (dùng sợi thiếc đấu dây mầu xanh lá cây vào một dây mầu đen)
    • Cấp điện cho bộ nguồn và quan sát quạt
    • Nếu quạt quay tít là nguồn đã hoạt động tốt
    •  Trường hợp sau đây là nguồn đã hoạt động
    Khi cắm điện và chập chân P.ON xuống Mass thấy quạt quay tít chứng tỏ nguồn hoạt động tốt
    • Trường hợp sau đây là nguồn bị chập các đi ốt chỉnh lưu điện áp ra, quạt nguồn chỉ hơi lắc lư khi cấp điện và chập chân P.ON xuống mass
     Khi cắm điện và chập chân P.ON xuống Mass thấy quạt hơi lắc lư là do nguồn bị chập phụ tải
    •  Trường hợp sau đây là nguồn bị mất hồi tiếp nên điện áp ra tăng cao, mạch bảo vệ hoạt động và ngắt điện áp ra ngay khi nó mới hoạt động.
     Khi cắm điện và chập chân P.ON xuống Mass thấy quạt nguồn quay vài vòng rồi tắt đây là hiện tượng nguồn bị hỏng mạch hồi tiếp ổn định điện áp ra

    BAD SECTOR: bản chất, nguyên nhân và phòng tránh


    Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, ổ đĩa cứng(HardDiskDrive=HDD) trong các hệ thống máy vi tính ngày càng chiếm vị trí quan trọng. Chúng có thể chứa đựng tất cả các tủ hóa đơn, giấy tờ, chứng từ quan trọng của các doanh nghiệp, các xấp ảnh, các chồng đĩa phim ảnh giải trí riêng tư và ngay cả các cơ sở dữ liệu lớn cần sự truy cập không có giờ phút ngừng nghỉ của các máy chủ…Tuy nhiên, bất kể hệ thống mà chúng ta đang sử dụng là máy chủ, máy tính cá nhân hay máy tính xách tay với những loại ổ đĩa cứng tốt nhất được lắp bên trong, có lúc, chúng ta vẫn phải đối mặt với những sự cố hư hỏng. Các biểu hiện của những sự cố đó rất da dạng nhưng chúng ta thường gặp là: máy tính khởi động và kết thúc với màn hình xanh kèm theo thông báo lỗi “Physical memory dump…”, việc copy một file nhỏ nào đó diễn ra rất chậm rồi không thành công, việc cài đặt hệ điều hành không thực hiện được…Có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến tình trạng này và một trong số đó là BAD SECTOR.
    Trong bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau khám phá nguồn gốc của lỗi, cách phòng tránh và phương án xử lý. Vấn đề được đề cập trong bài viết này sẽ liên quan tới nhiều thuật ngữ và khái niệm khác nhau của phần cứng máy vi tính tuy nhiên, chúng ta sẽ bỏ qua hoặc xem xét một cách sơ lược mọi thứ để đi sâu vào vấn đề chính: BAD SECTOR.


    1. Dẫn nhập:
    Trước hết, chúng ta hãy cùng xem xét vấn đề nguồn gốc của sector. Cấu trúc vật lý của ổ đĩa cứng thông thường sẽ gồm 03 thành phần:

    · Platter(đĩa hình tròn): nơi lưu trữ firmware-phần điều khiển cấp thấp của HDD và dữ liệu.


    · Bộ đọc/ghi(Actuator): bộ phận truyền tải thông tin.


    · Bảng mạch điều khiển điện tử(PrintedCircuitBoard=PCB): thành phần chứa đựng các cổng giao tiếp và phần điều khiển cấp cao của HDD.



    Mỗi platter của ổ cứng thường có 03 lớp: lớp nền tảng thường được chế tạo bằng hợp kim nhôm hoặc thủy tinh và có 02 bề mặt; lớp từ tính được phủ trên cả 02 bề mặt của lớp nền tảng và được cấu tạo từ các phần tử có thể nhiễm từ tính; lớp bảo vệ được phủ bên ngoài cùng cả 02 bề mặt. Tuân theo quy chuẩn chung về sản xuất HDD nên mỗi sản phẩm xuất xưởng, trên bề mặt platter đều có khuôn dạng lưu trữ là các vòng tròn đồng tâm mà chúng ta thường biết đến với tên gọi track hay cylinder. Các cylinders được chia cắt bởi các đường thẳng chạy từ tâm ra biên, chúng tạo nên các vùng lưu trữ data mà chúng ta vẫn quen nghe tên: sector.


    Để đọc/ghi dữ liệu lên platter, HDD sử dụng bộ đọc/ghi (Actuator). Cấu tạo chung của Actuator gồm có: bộ chuyển động, bộ khung đầu đọc, mạch điều khiển đọc ghi chung và đầu đọc từ tính(magnetic head). Trong quá trình đọc/ghi, đầu đọc treo lơ lửng phía trên, cách bề mặt platter vài microns. Áp lực không khí sinh ra trong khi platter quay với tốc độ cao đã góp phần tạo ra khoảng cách an toàn này, giúp bảo vệ an toàn head và bề mặt platter.


    Để đọc dữ liệu nào đó trên HDD, computer ra lệnh yêu cầu đọc data từ một sector cụ thể nằm trên ổ đĩa cứng với tham số chỉ định là một số nguyên dương. Bảng mạch điều khiển của ổ đĩa cứng khi tiếp nhận lệnh từ computer sẽ giải mã thông tin, định nghĩa bề mặt của platter có chứa đựng sector cần đọc, định nghĩa head của bề mặt đó, dịch chuyển head đến đúng vị trí của cylinder có chứa sector cần đọc và đọc dữ liệu từ tính tại đó. Tiếp theo, dữ liệu đó sẽ được chuyển về mạch đọc/ghi của bộ đọc ghi rồi dịch dữ liệu đó sang dạng bits và gửi các dữ liệu dạng bits đó về computer. Tiến trình ghi dữ liệu lên HDD cũng tương tự như tiến trình đọc ngoại trừ chút ít khác biệt: computer gửi lệnh ghi kèm theo 512 bytes dữ liệu cần ghi và HDD sẽ gửi trả lại kết quả của việc ghi dữ liệu. Đây là tính siêu đơn giản của phương án này, computer không cần biết bất cứ điều gì liên quan đến HDD ngoại trừ thông số về tổng số sector chứa đựng trong nó. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lỗi mà đôi khi chúng ta gặp phải: ổ đĩa cứng có dectect trong BIOS, trong DOS nhưng sau đó hệ thống treo cứng, không khởi động được; hệ thống nhận diện được tên nhưng dung lượng báo sai hoặc sai tên; khi ra lệnh đọc ghi một file nào đó, hệ thống báo lỗi hoặc treo máy…


    2. Nguyên nhân:

    Đến đây, chắc hẳn mọi người chúng ta đều có cùng một câu hỏi: “Nguyên nhân nào đã gây ra bad sector của ổ đĩa cứng?”. Câu trả lời chính xác là có 7 nguyên nhân đã gây ra lỗi bad sector. Ba nguyên nhân đầu là do lỗi trong quá trình sản xuất, hai nguyên nhân tiếp theo là do người sử dụng và hai nguyên nhân cuối cùng là do lỗi logical. Duy nhất chỉ có hai nguyên nhân cuối là có thể khắc phục. Các nguyên nhân gây lỗi bad sector:

    · 1 hole (hố) tạo ra do lỗi trong quá trình phủ lớp từ tính lên bề mặt platter.


    · Sự liên kết yếu kém giữa lớp từ tính và lớp nền platter tại một vị trí tạo ra 1 hole.


    · 1 hole được tạo ra trên bề mặt nền tảng của platter gây ra bởi thời gian.


    · Lỗi gây ra bởi chuyển động cơ học của Actuator hoặc do người dùng gây va đập dẫn đến head bị va vào bề mặt platter.


    · Theo nghiên cứu của HDDLABVN.COM, chất bôi trơn bên trong motor, do nhiệt độ cao của môi trường đã bốc hơi thoát ra ngoài, gặp nhiệt độ thấp hơn nên đông cứng thành hạt vật chất, va đập và phá hoại bề mặt platter.


    · Nhiệt độ cao của môi trường sử dụng computer gây nên sự thoái hoá công năng của bề mặt từ tính.


    · Lỗi về điện và/hoặc reset xảy ra trong tiến trình đọc/ghi data.



    Trong quá trình sử dụng computer, chúng ta thường hay gặp thông báo lỗi dạng: “Can not copy file(s) or folder(s), ECC failure when reading sector xxxxxx”…ECC (“error correction [or correcting] code" or "error checking and correcting”) được sử dụng để kiểm tra và sửa lỗi trong quá trình đọc và truyền dữ liệu. ECC được sử dụng với các phương tiện lưu trữ (media storage) như RAM, HDD…Vậy ECC hoạt động như thế nào? Chúng ta đều biết, mỗi đơn vị data (or word) được lưu trữ dù là tạm thời trong RAM hay lâu dài trên HDD, chúng đều phải được “đính” kèm các thông tin quan trọng. Gần giống như một “thẻ kho”, mỗi thông tin này sẽ cho biết độ dài liên tục của bits dữ liệu có trong mỗi đơn vị data. Cứ mỗi 64 bits của một đơn vị data sẽ gắn kèm 7 bits mở rộng để lưu trữ ECC. Khi có một lệnh yêu cầu đọc data tại một vị trí lưu trữ 64 bits đó, code đã lưu trữ trong 7 bits mở rộng sẽ được đọc và đưa vào vế trái của lệnh so sánh. Vế phải sẽ là kết quả của một tiến trình: thông tin về độ dài của 64 bits sẽ được tính toán và trả về kết quả theo cùng một phương pháp như đã tạo ra code đã lưu trữ, tiếp đó sẽ ghi kết quả vào vị trí so sánh. Nếu kết quả so sánh khớp nhau, tiến trình kiểm tra lỗi kết thúc, data sẽ được truyền đi theo yêu cầu của lệnh. Nếu kết quả so sánh không khớp nhau, một hay nhiều bits bị thiếu hay lỗi sẽ được sửa hoặc thêm vào cho đến khi mọi thông tin đều khớp và tiến trình ECC kết thúc, data sẽ được truyền đi theo lệnh đọc. Chúng ta thấy ở đây có một vấn đề: một việc “sửa” đã được tạo ra, vậy thì nó có gây sai lệch các thông tin nguyên bản đã lưu trữ? Liệu các thông tin về tài chính, các tài liệu sống còn của doanh nghiệp chúng ta có bị mất đi hay sai lệch sau việc sửa chữa này? Câu trả lời sau đây sẽ khiến chúng ta an tâm: không có sự thay đổi gì với 64 bits của mỗi đơn vị data đã lưu trữ, tất cả dữ liệu của chúng ta vẫn nằm trên vùng từ tính đã lưu trữ nó. Việc sửa chữa chỉ xảy ra với 07 bits mở rộng có chứa code, ECC chỉ cố gắng giúp cho tiến trình thực hiện lệnh đọc được thực thi mà thôi. Các dữ liệu thuộc về 64 bits của đơn vị dữ liệu vẫn còn trên phương tiện lưu trữ chỉ có điều, nếu không có chuyên môn và thiết bị chuyên dụng, chúng ta không thể nào lấy chúng ra được. Đây chính là một trong những lý do mà HDDLABVN.COM được thành lập và tồn tại: giúp mọi người, mọi doanh nghiệp lấy lại dữ liệu, cứu lại các thương vụ. Có vài nguyên nhân gây ra lỗi với ECC và bad sector là một trong số đó.


    Lỗi bad sector, xét về mặt vật lý là không thể sửa chữa (can not repaired). Đôi khi, chúng ta gặp một số quảng cáo như: “tẩy, cắt, sửa…bad sector”, đó là sự quảng cáo sai sự thật, thiếu chuyên môn. Thật vậy, chúng ta không thể có cách nào lấp đầy các “hố”(hole) được tạo ra bởi quá trình sản xuất hay do sự va đập trong sử dụng; chúng ta cũng không thể nào khôi phục được khả năng từ tính tại một điểm nào đó trên bề mặt platter đã bị suy yếu sau một thời gian sử dụng…Tuy nhiên, chúng ta có thể khắc phục lỗi bad sector bằng cách ra lệnh cho hệ thống không sử dụng chúng. HDDLABVN.COM đã nhận được nhiều thư của các bạn hỏi về vấn đề có hay không cái gọi là “sector dự trữ trong HDD?”. Câu trả lời là: về mặt kỹ thuật, không hề có khái niệm đó, các sector trên các phương tiện lưu trữ như HDD không hề giống như các bài viết thiếu chuyên môn trên mạng cũng như báo, tạp chí về vấn đề “thay thế” bad sector bằng một “sector dự trữ”. Với trí tưởng tượng của mình, những người viết các thông tin sai lệch đó đã cho rằng các sector sẽ “giống như” những ngăn kéo của một cái tủ và bằng một cách nào đó, họ sẽ “rút” cái hỏng ra và thay thế bằng cái “tốt” đã được “dự trữ ở đâu đó” trong miền lưu trữ của thiết bị. Về mặt kỹ thuật, chúng ta có thể cùng xem xét một tiến trình chung cho việc khắc phục lỗi bad sector như sau: Khi một sector bị đánh dấu là bad, hệ thống sẽ không sử dụng nó cho mục đích đọc/ghi dữ liệu nữa và tổng dung lượng của ổ đĩa cứng sẽ bị giảm đi một lượng bằng với lượng mà một sector chiếm dụng trên không gian nhớ của thiết bị lưu trữ. Khi gặp hiện tượng bad sector, chúng ta nên sao lưu các dữ liệu quan trọng bởi chúng có thể sẽ nằm ngoài khả năng sử dụng của chúng ta. Nếu các bad sector hiện ra quá đột ngột mà ta không thể kịp sao lưu thì tốt hơn hết nên gửi phương tiện lưu trữ của mình đến những nơi chuyên nghiệp như HDDLABVN.COM, tránh tự làm vì có thể mất đi cơ hội lấy lại các dữ liệu quan trọng. Còn nếu các dữ liệu không quan trọng, hoặc giả dụ như bạn muốn tự làm để có thể tiếp tục sử dụng một HDD đã bị lỗi bad sector thì sao? Các biện pháp được mô tả dưới đây sẽ phần nào giúp chúng ta đạt được mục đích của mình.


    3. Các biện pháp phòng tránh và khắc phục lỗi BAD SECTOR:

    · Các biện pháp phòng tránh bad sector: Để hạn chế tối đa bad sector chúng ta nên lưu ý về vấn đề tản nhiệt cho các thiết bị lưu trữ như HDD. Đất nước chúng ta nằm trong một miền địa lý với khí hậu nóng ẩm và đó là một trong những nguyên nhân gây ra bad sector. Vấn đề điện nguồn cũng nên được lưu ý vì điện lưới sinh hoạt của chúng ta thường xuyên tăng-giảm hay mất đột ngột cộng với việc các thiết bị cung cấp điện nguồn cho computer như ổ cắm điện, phíc cắm điện…thiếu an toàn cũng sẽ rất dễ gây lỗi. Nên sử dụng các thiết bị lưu trữ của chính hãng và dùng kèm theo computer một bộ cung cấp nguồn ổn định, ví dụ như dùng UPS online. Tránh sử dụng các thiết bị ổn áp cơ học, chỉ có giá trị về mặt lý thuyết hoặc giá trị rất nhỏ cho việc sử dụng computer.

    · Các biện pháp khắc phục lỗi bad sector: Chúng ta có thể sử dụng chính các công cụ miễn phí có trong hệ điều hành đã cài đặt sẵn. Với Windows XP chúng ta có thể làm như sau: chạy chương trình My Computer, click vào My Computer trong khung bên trái màn hình. Khung bên phải sẽ liệt kê các ổ đĩa có trong hệ thống, click chuột phải vào tên ổ đĩa muốn khắc phục lỗi bad sectoràchọn Properties. Trên màn hình sẽ hiển thị khung Properties của ổ đĩa, click chuột vào tab Toolsàtrong khung Error-Checkingàclick Check Now…; Với các bạn thích sử dụng dòng lệnh, chúng ta làm như sau: bấm tổ hợp phím Windows+R để gọi lệnh thực thi RUN. Trong khung Open, gõ CMD và bấm Enter. Trong khung cửa sổ có dấu nhắc hiện ra, gõ chữ cái đại diện tên ổ đĩa có bad sector kèm theo dấu hai chấm, (ví dụ như D:) và bấm phím Enter. Tại dấu nhắc, gõ lệnh CHKDSK và bấm Enter để bắt đầu tiến trình kiểm tra bad sector; Chúng ta cũng có thể sử dụng các chương trình tiện ích của hãng khác như Norton Disk Doctor, HDDRegenerator…để đánh dấu không sử dụng các bad sector.4. Các bad sector được khắc phục như thế nào tại HDDLABVN.COM:

    Như chúng ta đều biết, firmware là rất quan trọng đối với mỗi HDD, nó quyết định hoạt động quan trọng của ổ đĩa cứng: đọc và ghi. (Các bạn có thể tìm đọc thêm thông tin về firmware của HDD tại địa chỉ website: http://www.hddlabvn.com/new/content/view/9/32/ ) Công nghệ HDD sử dụng nhiều modules để tạo nên firmware điều khiển các hoạt động căn bản cấp thấp của ổ đĩa cứng. Một số modules được sử dụng để điều khiển sự dịch chuyển đầu đọc/ghi, một số khác sẽ giúp chúng ta khắc phục các bad sector trong đó quan trọng nhất là 2 modules: P-List(Primary List) và G-List(General List). Mọi HDD đều có bad sector ngay từ khi xuất xưởng và P-List làm nhiệm vụ kiểm soát, ngăn không cho hệ thống sử dụng chúng. Nhà sản xuất sử dụng các phần cứng và phần mềm riêng để đưa các bad sector vào P-List, người dùng không thể can thiệp vào đây. Với các phần mềm tiện ích miễn phí và có phí, người dùng có thể đưa các bad sector vào G-List và như vậy là chúng ta đã an toàn, hệ thống sẽ không đọc/ghi vào sector đó nữa. Tuy nhiên, khi P-List và G-List bị lỗi, hỏng các bad sector không được kiểm soát và sự khó chịu không mong đợi đã xảy đến: “Mất dữ liệu”. Đây là một trong những lý do cho chúng ta thấy không hề có cái gọi là “cắt” hay “thay thế” bad sector